Sign In

Suy ngẫm về một số vấn đề đặt ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW

Nghị quyết 57-NQ/TW ra đời rất đúng thời điểm và là cú huých, đột phá đưa khoa học công nghệ lên tầm cao mới, đóng góp nhiều hơn cho sự giàu mạnh của đất nước.

 

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia không chỉ khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng ta mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ, nâng cao ý thức trách nhiệm của các nhà khoa học tiếp tục cống hiến, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của đất nước. Trong dòng chảy chung của sự phát triển của đất nước, Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam là nơi tập hợp những nhà khoa học hàng đầu chuyên nghiên cứu các vấn đề về kinh tế môi trường, các chuyên gia, nhà khoa học đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung ấy. Trong mỗi ngành, lĩnh vực của kinh tế môi trường nói chung và môi trường nói riêng, bằng tri thức, khối óc, trí tuệ của mình, mỗi một nhà khoa học trong Hội đều nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình đóng góp vào sự nghiệp đổi mới, kỷ nguyên mới của dân tộc. 

Chuyên trang Chuyển đối số Bộ Tư pháp xin giới thiệu tới độc giả, những nhà quản trị chính sách, bài viết của GS.TS Hoàng Xuân Cơ- Trưởng Ban Khoa học- Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam- Ủy viên chuyên trách trong Hội Đồng biên tập Tạp chí Kinh tế Môi trường, một góc nhìn mới sau khi Nghị quyết số 57 ra đời. 

Bối cảnh

Năm 2025 là năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ XIII và cũng là năm có nhiều ngày kỷ niệm lớn của Việt Nam. Mọi người dân đều cảm thấy rất tự hào về sự phát triển ngoạn mục của đất nước, cả về ổn định chính trị, ổn định lương thực, ổn định năng lượng, ổn định xã hội. Đời sống của nhân dân được cải thiện, Việt Nam đã có người giàu, thậm chí rất giàu theo tiêu chí quốc tế, đó là các tỷ phú đô la. Bên cạnh đó, tầng lớp dân số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, người khuyết tật, nạn nhân chất độc da cam, người yếu thế được chăm lo tốt nên không còn quá lo cái ăn, cái mặc, nơi ở và cuộc sống thường ngày. Người nông dân đã làm chủ máy móc cơ giới không còn phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời nữa mà từng bư

ớc làm kinh tế nông nghiệp với hiệu quả cao. Đây là điều tốt đẹp mà không phải ở quốc gia nào cũng làm được.

Mới đây nhất, bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành được coi là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới. Trong số 4 Nghị quyết này chúng tôi quan tâm nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Tổng Bí thư Tô Lâm cho hay, 4 nghị quyết này có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, không thể thực hiện tách biệt nhau mà phải phối kết hợp để có được hiệu quả thực thi cao nhất. Tuy nhiên vì bài viết có hạn chỉ xin đề cập đến Nghị quyết số 57-NQ/TW (sau đây viết tắt là NQ57).

Là một giảng viên đại học từ 1972 đến 2020 và đã từng tham gia, chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH), tôi đã có hiểu biết ít nhiều về hoạt động này của Việt Nam qua các thời kỳ với những quan điểm, cách tiếp cận, quản lý khác nhau. Trong bài viết này chỉ xin nêu một số suy ngẫm, cảm nhận của mình về những vấn đề đặt ra và thực hiện trong NQ57.

 

Suy ngẫm về một số vấn đề đặt ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW - Ảnh 1
 

 

Nghị quyết 57 hướng tới những đối tượng nào?

Theo tôi, NQ57 hướng tới bốn đối tượng chính sau:

Các cơ quan quản lý, lãnh đạo công tác NCKH và cán bộ lãnh đạo, quản lý NCKH.

Các tổ chức NCKH, nhà khoa học người Việt Nam (cả trong và ngoài nước).

Các cơ sở hạ tầng NCKH, các sản phẩm NCKH, thị trường sản phẩm KHCN,…

Xã hội hóa NCKH

Các cơ quan quản lý, lãnh đạo công tác NCKH và cán bộ lãnh đạo, quản lý NCKH

Ta sẽ phân tích ký hơn họ là ai, họ có trách nhiệm, quyền hạn gì và thông qua công cụ gì. Đây là vấn đề lớn, đặc biệt là hình thành cơ chế, hệ thống quản lý KHCN tốt thì công cuộc NCKH sẽ thu được hiệu quả cao nhất. Trong NQ57 đề cập tới vai trò quản lý nhà nước trong NCKH.

Các cơ quan quản lý, lãnh đạo NCKH có thể coi là “ông chủ”, người đặt hàng cho các tổ chức, cá nhân NCKH (người thực hiện) các đề tài lớn, có tầm quan trọng, được ưu tiên ở mức cao. Bởi vì các “ông chủ” này là người hiểu hơn ai hết những nhu cầu phát triển đất nước qua các thời kỳ và nắm trong tay nguồn lực (kinh phí, cơ sở hạ tầng, thiết bị, nhân lực,…) lớn để đầu tư cho các đề tài mang tầm quốc gia. Nếu không có những dự án tầm cao như nghiên cứu ứng dụng năng lượng nguyên tử; nghiên cứu vật liệu mới, vật liệu, sản phẩm siêu nhỏ; nghiên cứu, sản xuất turbin gió, pin năng lượng mặt trời; sản xuất máy bay, tên lửa, rada chất lượng cao, phần mềm đa năng,… để 10 hay 15 năm sau chúng ta có thể làm chủ công nghệ, có thể tự sản xuất nhiều sản phẩm công nghệ cao để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.


Hãy nhìn những đề án tầm quốc gia và sự vào cuộc quyết liệt của các nhà khoa học nên Trung Quốc đã phát triển mạnh như ngày nay hay đề án phát triển vũ khí hiệu năng cao của Triều Tiên nên họ đã có tên lửa liên lục địa, vũ khí nguyên tử để bảo vệ đất nước. Theo tôi, hiện tại chưa hình thành được cơ chế tổ chức và cũng chưa có ý tưởng NCKH đủ tầm với mức đầu tư cao để có những đề án kiểu như ở các quốc gia đã thực hiện thành công. Tất nhiên, các đề án này phải có đủ nguồn lực kinh tế, tầm cỡ hàng nghìn tỷ, hàng trăm triệu USD trong thời gian dài và phải có cơ chế đủ mạnh để huy động nguồn lực, phải có người đủ tâm, đủ tầm đứng ra chịu trách nhiệm kiểu “Tổng công trình sư” thì mới có kết quả mong muốn. Chúng ta có thể hy vọng là NQ57 giúp Việt Nam có được những đề án loại này trong tương lai gần và có kết quả NCKH tầm quốc tế trong vòng 10 đến 15 năm tới.

Các tổ chức NCKH, nhà khoa học người Việt Nam (cả trong và ngoài nước)

Nếu Nhà nước được coi là “ông chủ” thì có thể coi các tổ chức NCKH, các nhà khoa học là “Thợ/người làm/người thực hiện” các đề án NCKH. Vậy họ là ai, họ có khả năng gì, và thu hút sử dụng họ như thế nào để phát huy hiệu quả tiềm năng của họ cần có câu trả lời. Các bài viết trên các báo, tạp chí đã tổng kết, nêu được trí thức là ai, chẳng hạn trong [1] đã trích dẫn đánh giá của C. Mác, của Ph. Ăng-ghen, của Lê Nin: trong xã hội tư bản, C. Mác gọi những người lao động trí óc là “kẻ lao động làm thuê”; khi họ giác ngộ lập trường của giai cấp công nhân thì Ph. Ăng-ghen gọi đó là “giai cấp vô sản lao động trí óc” - tầng lớp trí thức mới của giai cấp công nhân. Theo V.I. Lê-nin, trí thức là “tầng lớp đặc biệt”, “bao hàm tất cả mọi người có học thức,... các đại biểu của lao động trí óc”.

Nói như vậy, thì trong các đề án NCKH, Trí thức thật ra là người “thợ/công nhân” và nếu “ông chủ” sử dụng tốt, tạo điều kiện làm việc tốt và chi trả thu nhập hợp lý thì họ sẽ đem hết sức mình thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Rõ ràng, trí thức hiện đại chỉ có thể làm việc tốt khi có điều kiện làm việc tốt, đó là các phòng thí nghiệm (PTN) hiện đại, mang tầm quốc tế, cần thiết bị nghiên cứu có độ chính xác, độ tin cậy cao và cả không gian NCKH đủ để kết nối với các tập thể cá nhân NCKH khác. Đây là điều mà những nhà lãnh đạo thực hiện NQ57 cần khảo sát xem, các điều kiện ở Việt Nam đang ở mức nào để có kế hoặc nâng cấp, hoặc tạo dựng mới trong khoảng thời gian đến năm 2030.

Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết để có thể thu hút trí thức Việt Kiều về làm việc ở Việt Nam vì cái họ cần là điều kiện làm việc tốt và tất nhiên là cả có mức thu nhập hợp lý, cho dù thấp hơn khi làm việc ở nước ngoài. Khi nêu ra điều cảm nhận này, đã có người phản biện, kiểu như trong kháng chiến chống Pháp, điều kiện làm việc còn rất hạn chế mà Nhà khoa học Trần Đại Nghĩa vẫn sản xuất được nhiều vũ khí thuộc loại hiện đại khi ấy, hay các loại thuốc kháng sinh ("nước lọc penecillin"), vaccine chống thoa trùng sốt rét của GS. Đặng Văn Ngữ nghiên cứu, sản xuất và đưa vào ứng dụng trong thời gian khó, chống pháp, chống Mỹ. Có lẽ, chỉ có tầm nhìn sâu, xa, rộng của Bác Hồ mới có thể “dùng/thu hút” được các vị GS này và thực ra Bác cũng đã tìm mọi cách tạo điều kiện làm việc tốt nhất, cử cán bộ cộng tác tốt nhất nên mới có những sản phẩm nổi tiếng như vậy. Tuy nhiên trong thời đại hiện nay, có lẽ phải tạm đưa những lập luận kiểu này ra khỏi bộ nhớ để tiếp cận những tiến bộ KHCN hiện đại trên toàn thế giới để xây dựng cơ sở hạ tầng đủ mạnh với các phòng thí nghiệm hiện đại tầm quốc tế.

Hiện nay nhiều khi để kiểm định một sản phẩm chúng ta phải nhờ đến các PTN nước ngoài vừa bất tiện vừa tốn kinh phí và hoàn toàn bị động. Bài học rõ nét nhất là trong đại dịch Covid19, Việt Nam đã cố gắng sản xuất được vaccine.

Việc hình thành các tổ chức NCKH lớn mang tính độc lập như các Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam hay các tổ chức khoa học công nghệ nằm trong các công ty lớn như Viettel hay VinGroup, FPT,… là tín hiệu đáng mừng. Có lẽ trong thời gian không xa sẽ có thêm những công ty loại này để có thể nhận, thực hiện dự án/đề án lớn sản xuất những sản phẩm mang đậm phong cách Việt Nam, phục vụ nhân dân Việt Nam và cả xuất khẩu nữa.

Suy ngẫm về một số vấn đề đặt ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW - Ảnh 2

 

Các cơ sở hạ tầng NCKH, các sản phẩm NCKH, thị trường sản phẩm KHCN,…

Trong thời gian vài chục năm trở lại đây, Việt Nam đã rất cố gắng nâng cao cơ sở hạ tầng NCKH thông qua xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại với các trang thiết bị tiên tiến, ngang tầm thế giới. Thành lập các Phòng Thí nghiệm trọng điểm cấp quốc gia (sau đây viết tắt là PTNTĐQG) là cố gắng chủ Chính phủ Việt Nam theo Quyết định số: 850/QĐ-TTg ngày 07 tháng 09 năm 2000 trong việc nâng cấp hạ tầng NCKH lên tầm cao mới. Theo trang Chinhphu.vn ngày 25/8/2010 [2] đã có 16 PTNTĐQG được thành lập. Nhìn chung các PTN này đã phát huy được thế mạnh của mình trong NCKH với nhiều sản phẩm đạt trình độ Thế giới. Tuy nhiên, vẫn có PTN đến nay chưa phát huy được thế mạnh, thậm chí tên của mình cũng không được nhắc nhiều. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội (nơi tôi công tác trước đây) có 01 PTNTĐQG, đó là Phòng thí nghiệm Công nghệ enzym và protein. Trên trang mạng của PTN này vẫn đăng tải nhiều hoạt động NCKH hiệu quả như đăng các bài báo trên các tạp chí khoa học có uy tín, thực hiện nhiều đề tài các cấp, giao lưu với nhiều PTN khu vực và trên thế giới,…

Hiện nay, Việt Nam đã nâng tầm cơ sở hạ tầng phục vụ NCKH với nhiều PTN, PTNTĐ các cấp nhưng vấn đề liên kết sử dụng các thiết bị còn nhiều hạn chế nên hiệu quả chưa cao. Một trong những hạn chế là giá dịch vụ phân tích, sử dung thiết bị chưa được/khó xác định nên chưa có thể thông báo để các cơ sở có thể gửi mẫu nhờ phân tích. Nhà khoa học cơ quan ngoài các PTN rất khó vào sử dụng thiết bị nên nhiều khi họ đành gửi mẫu ra nước ngoài phân tích, tuy tốn kém nhưng dễ thanh toán. Đây có thể coi là nút thắt cần phải gỡ khi nâng cấp hệ thống cơ sở NCKH sao cho có sự liên kết rộng rãi, có thể cung cấp dịch vụ phân tích ra các quốc gia khác và là nơi thu hút đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài nước đến thực hiện thí nghiệm, sử dụng thiết bị.

Nói đến sản phẩm KHCN, có thể coi là đầu ra của các hoạt động NCKH. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động KHCN được xây dựng và thực hiện theo cơ chế cung - cầu nhưng có những điểm đặc thù riêng cần được nghiên cứu kỹ hơn. Một hoạt động NCKH cụ thể (các dự án, đề án, hợp đồng,…) phải được cả người cung (có thể là các chủ thể, cá thể NCKH) và người cầu (như Nhà nước, các doanh nghiệp chẳng hạn) về sản phẩm đầu ra. Trong các Thuyết minh đề tài luôn có phần sản phẩm dự kiến, chẵng hạn, theo Biểu B1-2d-TMĐA ngày 20/2023/TT-BKHCN đối với Thuyết minh Đề án khoa học cấp quốc gia thì sản phẩm phải giao bao gồm Dạng I:Công bố khoa học (Bài báo; Sách chuyên khảo và các sản phẩm khác) và Dạng II: Báo cáo khoa học (báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu, báo cáo kiến nghị); kết quả dự báo; mô hình; quy trình; phương pháp nghiên cứu mới; sơ đồ, bản đồ; số liệu, cơ sở dữ liệu và các sản phẩm khác.

Quả thật đây là những sản phẩm có thể dễ chấp nhận nhưng phần lớn mang tính học thuật. Trong thực tế cần hơn những đề án mà sản phẩm là hữu hình, là sản phẩm thương mại mà người chủ cần được cung cấp. Tất nhiên, đây là những sản phẩm mà cả người cầu và người cung phải hình dung ra chi tiết nhất có thể. Ví dụ đề án nghiên cứu chế tạo Turbin gió có thể lắp đặt trong điều kiện Việt Nam thì các thông số như tốc độ gió bắt đầu phát điện, đường cong năng lượng, tổng khối lượng, chiều dài cánh quạt, tuổi thọ sản phẩm,… phải được bàn luận chi tiết và khi đã ký hợp đồng giữa bên cầu (Nhà nước, doanh nghiệp) và bên cung (tổ chức KHCN) thì sản phẩm là turbin gió cụ thể hữu hình, có thể thỏa mãn các yêu cầu đặt ra trong hợp đồng. Việt Nam hiện đang thiếu các loại đề án/dự án/hợp đồng NCKH có sản phẩm kiểu này. Tất nhiên, đây sẽ là những dự án lớn cần thực hiện trong thời gian đủ dài với nguồn kinh phí lớn, có thể có rủi ro xảy ra nên chỉ khi có cơ chế dầu tư mạo hiểm thì mới có thể thực hiện.

Hiện tại, Việt Nam mới có ít doanh nghiệp đủ sức đầu tư cho NCKH nhưng những công ty lớn như VinGroup, Hòa Phát, FPT,… đã là những công ty có vốn hoạt động lớn, đã và đang chú trọng vào đào tạo nhân lực cao (thành lập các trường đại học) cùng NCKH, đặc biệt VinGroup còn tổ chức được một giải thưởng khoa học tầm cỡ quốc tế, giải VìnFuture tôn vinh các nghiên cứu khoa học và các phát minh, sáng chế đổi mới công nghệ ở tất cả các lĩnh vực khoa học công nghệ mà hướng tới góp phần giải quyết những thách thức chung của nhân loại. Giải thưởng này là sự kiện hàng năm, có thể giúp giới khoa học Việt Nam có điều kiện tiếp cận với nền khoa học tiên tiến trên Thế giới, nâng tầm học thuật của các nhà khoa học Việt Nam ở nhiều lĩnh vực.

Vấn đề quan trọng là kết nối được công tác NCKH, tận dụng được toàn bộ hạ tầng thiết bị, phòng thí nghiệm, tri thức của các nhà khoa học hàng đầu để thực hiện những đề án/dự án/hoạt động KHCN tầm cỡ do Nhà nước đặt ra. Hy vọng là sau 15 đến 20 năm tới sẽ được chứng kiến những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao như turbine gió, các thiết bị điện mặt trời, tên lửa tầm xa, ra đa hiện đại,… sản xuất tại Việt Nam.

Một vấn đề quan trọng nữa cần được quan tâm giải quyết, đó là định giá kết quả các công trình NCKH, định giá sản phẩm mà đề tài/dự án tạo nên. Là một người có tham gia và chủ trì một số đề tài từ đầu những năm 1980 đến nay, tôi vẫn canh cánh trong lòng về vấn đề này mà bây giờ vẫn còn phân vân vì quả thật khó mà cân đong, đo đếm, tính toán được một số sản phẩm, kết quả của một công trình NCKH. Ngày xưa (trước 2010), nhiều nhà khoa học cố gắng đề xuất đề tài và mong được chấp nhận, cấp kinh phí để thực hiện nhưng không dễ thành công vì kinh phí cho NCKH (của nhà nước) rất hạn chế. Chính vì vậy mà cách thức này được gọi là cơ chế “xin-cho”, nhà khoa học “xin” và Nhà nước xét/“cho”. Kết quả đề tài sẽ được một Hội đồng đánh giá, thẩm định theo các cấp độ khác nhau (như không đạt, đạt, khá, tốt/xuất sắc chẳng hạn).

Do nhà khoa học tự đề xuất đề tài nên họ hầu như biết chắc kết quả có thể thu được và vì vậy hầu như không có loại kết quả không đạt, đạt và rất ít đề tài loại khá. Cho đến 2015 tôi cũng chủ trì khoảng 10 đề tài các cấp nhưng đến khi nộp hồ sơ Nhà giáo ưu tú, vì không có đề tài nào đạt loại tốt nên không được xét, mãi sau này, khi tiêu chí đánh giá có hạ mức xuống và tôi cũng có một hai đề tài nghiệm thu đạt loại tốt nên đến năm 2014 tôi mới được công nhận danh hiệu này. Các cơ quan quản lý khoa học cũng nhận ra điều này nên đã lập một quỹ (quỹ Nafosted) và xây dựng một loại đề tài NCKH có tiêu chí đánh giá “cao hơn” qua số lượng các bài báo quốc tế đạt mức ISI, SCI, SCOPUS,… và khi ấy, đã có những đề tài không đạt vì không đạt số lượng bài đăng theo thuyết minh.

Thật ra, cũng có một số đề tài không thuộc diện xin-cho mà do các cơ quan Nhà nước đặt hàng và tổ chức đấu thầu nhưng số lượng không nhiều. Khoảng năm 2003-2005 Hà Nội đăt ra đề tài Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm bụi ở Thành phố Hà Nội và đề xuất các giải pháp khắc phục và tổ chức đấu thầu nhưng lần đấu thầu thứ nhất chỉ có vài hồ sơ, không có hồ sơ đạt, đến lần sau cũng không có thêm hồ sơ mới nên Hà Nội chính thức chỉ định thầu cho Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG HN do tôi làm chủ trì. Đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều người cả trong giới khoa học và cả nhân dân Hà Nội. Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu là Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội (Ông Đỗ Hoàng Ân) và nhiều quan chức các ngành của thành phố, nhiều câu hỏi đã được đặt ra như câu hỏi về tại sao, trên cơ sở nào ước tính mức chi phí thiệt hại do ô nhiễm bụi là khoảng 200 - 500 tỷ đồng/năm giai đoạn đến 2010, thật khó trả lời để vừa ý tất cả thành viên Hội đồng.

May mắn đề tài được đánh giá loại khá nhưng điều tôi nhớ mãi đó là trả lời câu hỏi của phóng viên truyền hình Hà Nội về kết quả chính của đề tài. Tôi trả lời là có thể đánh giá Hà Nội bị ô nhiễm bụi ở mức khá rộng và bị hỏi thêm nếu đánh giá thế thì ai chả biết, cần gì phải tiến hành đề tài?, may mà lúc đó tôi nhanh trí nói về cách đánh giá, ai cũng có quyền đánh giá và đưa ra mức đánh giá của mình nhưng đánh giá của đề tài là đánh giá có cơ sở pháp lý (dựa vào tiêu chuẩn quốc gia) và cơ sở khoa học thông qua đo đạc, phân tích, xử lý số liệu còn đánh giá của một số người chỉ mang tính trực quan, cảm tính. Bây giờ tôi nghĩ lại thì thấy vẫn còn có nhiều đánh giá thiếu cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học nhưng vẫn phát biểu làm nhiễu thông tin.

Một điểm nữa cần làm sáng tỏ và có cách tháo gỡ, đó là bản quyền các kết quả khoa học. Khái niệm bản quyền về bài ca, bản nhạc, cuốn sách hay kịch bản đã dần dần rõ hơn ở Việt Nam, để tác giả có thể có thêm thu nhập khi sản phẩm của mình được sử dụng trong những sự kiện có thu kinh phí. Hiện nay đã có nhiều loại bản quyền được áp dụng ở Việt Nam nhưng nhiều nhà khoa học, nhất là những nhà khoa học thời bao cấp vẫn còn khá “ngu ngơ” với khái niệm bản quyền. Bản thân tôi, khi tra cứu thì thấy có rất nhiều loại và không hiểu một kết quả nghiên cứu của mình có đáng đăng ký bản quyền không và bản quyền loại gì. Theo tôi được biết thì đôi khi các nhà khoa học rất ít khi để ý, thậm chí coi kết quả của mình cũng chỉ bình thường thôi nhưng thật ra nếu có cơ chế đánh giá tốt, tiến hành xem xét đánh giá nghiêm túc thì mới thấy hết giá trị công trình. Ở một số quốc gia đã có các cơ sở đánh giá loại này và họ làm việc rất chuyên nghiệp, khi có yêu cầu họ sẽ tiến hành đánh giá và đề xuất loại bản quyền nên đăng ký.

Tất nhiên, muốn có kết quả đánh giá, tác giả phải chi kinh phí, nhiều khi ở mức khá cao nên lại ngại, bỏ đăng ký bản quyền. Vậy bản quyền có mang lại lợi ích cho các tác giả hay không?, phải khẳng định là có. Ngay cả khi có hoặc chưa có bản quyền nhưng nột số công nghệ, sản phẩm nghiên cứu có thể trình bày ở chợ công nghệ thiết bị (Techmart) mà Việt Nam đã tổ chức nhiều năm qua.

Công nghệ, thiết bị đem trưng bày giới thiệu ở chợ sẽ được các chủ đầu tư, chủ doanh nghiệp quan tâm và khi cần họ có thể mua để sử dụng. Đây là cách đánh giá bằng tiền đối với các sản phẩm có khả năng áp dụng trong thực tế, được thị trường chấp nhận.

Như cá nhân tôi cũng có một “công nghệ” rất nhỏ bé nhằm giảm phát thải bụi, SO2 từ các lò gạch thủ công (vốn rất phổ biến trước 2015) ở dọc sông Đuống (Hà Nội, Bắc Ninh), sông Ninh Cơ (Nam Định) và nhiều nơi khác. Thiết bị này đã được kiểm chứng qua đo đạc khói lò trước và trong khi phun nước vôi trong từ trên xuống trong ống khói. Kết quả giảm phát thải SO2 chỉ vào khoảng 52-60% nhưng đã được nhiều học giả quốc tế đánh giá cao vì tính tiện lợi trong áp dụng.

Tôi vẫn nói vui với bạn bè là suýt chút nữa là có khoản thu nhập lớn từ bán “bản quyền” thiết bị này nếu như Nhà nước không cấm hoạt động lò gạch thủ công mà cho phép hoạt động nếu lắp đặt thiết bị giảm phát thải. Tôi đã được nhiều chủ lò gạch ở Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định gọi, đề nghị cho biết phương thức cung cấp, lắp đặt thiết bị này cùng giá cả. Tôi tính toán và nếu thu tiền bản quyền đối với thiết bị lắp đặt ở một ống khói một năm cỡ 01 triệu đồng thì sẽ thu được một khoản thu lớn. Đáng tiếc là hoạt động lò gạch thủ công bị cấm nên khoản thu này của tôi cũng không thành hiện thực. Có lẽ bản quyền khoa học, công nghệ cũng nên có quy định mức thu khi người khác sử dụng, có thể quy định mức thu cao nhất (ví dụ không quá 5% lợi nhuận thu được từ việc áp dụng) có thể còn mức thu thực tế do thỏa thuận. Chẵng hạn một đơn vị, cá nhân nhà khoa học có giống lúa mới, năng suất cao, chất lượng tốt (ví dụ như ST25) thì ai sử dụng phải trả bản quyền cho kỹ sư Hồ Quang Cua ở mức nào đó (tôi không rõ Ông Cua có thu được thu nhập này không?).

 

Suy ngẫm về một số vấn đề đặt ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW - Ảnh 3

 

Xã hội hóa NCKH

Đây là đối tượng cần phải quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới. Bởi vì, trong các hoạt động NCKH và đưa kết quả thu được phục vụ phát triển chung của đất nước, cả phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường thì ngoài Nhà nước thì các tổ chức cá nhân khác cũng phải vào cuộc. Nếu như Nhà nước định ra những đề án lớn bao quát nhiều lĩnh vực thì từng lĩnh vực có thể giao cho những tổ chức NCKH ngoài nhà nước, kể cả các đơn vị tư nhân. Và chính các đơn vị hoạt động kinh tế cũng phải đầu tư, tiến hành hoạt động NCKH để tự nâng cao năng suất, sản lượng các hàng hóa dịch vụ của mình. Tuy nhiên, vấn đề liên kết tất cả các nguồn lực, các tổ chức xã hội NCKH đã có thành một hệ thống dưới sự chỉ đạo điều hành chung tầm quốc gia để khi Nhà nước có yêu cầu thì tất cả những gì đã có phải được huy động cùng thực hiện hiệu quả.

Có thể coi thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ NCKH như là dạng xã hội hóa và trong vòng 30 chục năm (tính đến 2025), Việt Nam đã nhận được lượng kinh phí, thiết bị nghiên cứu khá lớn từ các quốc gia thông qua các tổ chức phát triển quốc tế kiểu SIDA Thụy Điển, USAID Mỹ JICA Nhật Bản,… Ngoài ra còn từ các tổ chức khác như Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) và nhiều tổ chức khác. Thật ra, một phần rất quan trọng trong NCKH là liên kết, giao lưu quốc tế và chỉ khi các trường đại học, viện nghiên cứu, PTN của Việt Nam luôn có các đại diện nước ngoài đến làm việc, học tập, nghiên cứu, trao đổi thì công tác NCKH mới đạt tới tầm quốc tế.

Hiện trạng các nguồn lực NCKH tính đến 2025

Để đánh giá đúng hiện trạng các nguồn lực NCKH, thực hiện NQ57 phải tiến hành điều tra nghiêm túc để có số liệu, tài liệu chính thống mang tính quốc gia. Tuy nhiên, qua những gì được thấy, được đọc chúng tôi muốn đưa ra một số cảm nhận của mình về sự lớn mạnh của các nguồn lực NCKH là điểm tựa để tin tưởng vào thành công của việc thực hiện NQ57 và cũng minh chứng cho tính phù hợp của thời điểm đưa ra NQ57 vào năm 2025.

Nguồn nhân lực

Nhân lực là nguồn lực mang tính quyết định trong NCKH, trong sáng tạo khoa học và quyết định thành công của các dự án NCKH tầm quốc tế, quốc gia, phục vụ đắc lực cho phát triển đất nước.

Nhận thức rất rõ vai trò của nguồn nhân lực nên Đảng, Nhà nước và Bác Hồ đã sớm có chiến lược trọng dụng những trí thức được đào tạo trước năm 1954 và chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật ở mọi trình độ sau đó. Những năm cuối thập kỷ 1960, đầu thập kỷ 1970, trong lúc chiến tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn khốc liệt nhất thì Chính phủ Việt Nam đã gửi rất nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh, trong đó có nhiều người là con em miền Nam tập kết ra Bắc, sang học tập, đào tạo ở Liên Xô và các nước XHCN để sau khi thống nhất chúng ta có đội ngũ khá đông đảo, đủ sức hình thành hệ thống NCKH có bài bản, làm cơ sở cho sự phát triển về lâu về dài.

Để chủ động hơn, Việt Nam đã hình thành được hệ thống giáo dục phổ thông, thành lập nhiều trường đại học, nhiều viện nghiên cứu tham gia đào tạo nên đã có những lứa học sinh, kỹ sư, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ đạt trình độ cao. Năm 1965, tại Khoa Toán, Trường Đại học Tổng hợp đã khai giảng lớp Toán đặc biệt - lớp cấp 3 phổ thông dạy học sinh có năng khiếu về toán (bây giờ gọi là chuyên toán) khóa I (1965-1967). Những năm sau đó, đã có thêm nhiều trường chuyên, lớp chọn đào tạo nhiều lứa học sinh năng khiếu về toán, lý, hóa, sinh học, ngoại ngữ, văn học,… Cũng có nhiều đánh giá khác nhau về các lớp này nhưng rõ ràng các học sinh này đã đi thi, mang về nhiều giải vàng, giải bạc của các kỳ thi Olympic quốc tế, nhiều người sau này trở thành những nhà khoa học tầm cỡ quốc tế làm rạng danh đất nước. Tuy nhiên, do phát triển có phần ồ ạt, thiếu kiểm soát nên đã xảy ra nhiều tiêu cực trong quá trình đào tạo làm suy giảm niềm tin của nhân dân. Đây là vấn đề cần được khảo sát, điều tra làm rõ những gì đạt được, những gì còn hạn chế để  để tìm cách khắc phục.

Hiện tại, chúng ta có nhiều nhà khoa học gốc Việt đang làm việc ở nước ngoài, nhiều người có những công trình nổi tiếng, đang thực hiện nhiều đề tài lớn mang lại hiệu quả cao cho nước sở tại. Đã có lúc mọi người có cái nhìn không mấy tích cực vì những người Việt tài năng sao không về Việt Nam cống hiến nhưng giờ đây Đảng và Nhà nước đã có cái nhìn đúng hơn về hiện tượng này, thậm chí khi gặp trí thức gốc Việt ở Mỹ, Tổng Bí thư Tô Lâm còn đánh giá cao tâm huyết, tầm nhìn và những đóng góp thiết thực của các trí thức người Việt Nam, thể hiện trách nhiệm và tình cảm đối đất nước của những người xa quê hương. Thật ra, khi đất nước cần, những nhà khoa học sẵn sàng về nước cống hiến, ngay cả khi còn rất khó khăn (thời kháng chiến) và chắc rằng ngày nay khi Nhà nước tạo được điều kiện làm việc tốt, không thua kém nhiều quốc gia khác thì khi được mời nhiều nhà khoa học sẽ về góp phần của mình cho đất nước phát triển.

Mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng theo tôi, đội ngũ các nhà khoa học, các cán bộ phục vụ NCKH đã lớn mạnh nhưng có lẽ phải tiến hành kiểm kê, đánh giá, phân loại nguồn nhân lực này, không chỉ là những nhà khoa học có bằng cấp mà cả những cán bộ, công nhân tay nghề cao hiện đang làm việc trong nước và nước ngoài. Việc tạo thành cơ sở dữ liệu (chứ không phải là bảng kiểm kê) sẽ giúp Nhà nước nắm chắc nguồn lực này và khi cần có thể tìm đúng, chọn đúng những nhân tố có thể đứng ra gánh vác, nghiên cứu những đề tài NCKH loại khó, đưa vào sử dụng để sản xuất ra những sản phẩm có hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao cho đất nước.

Cơ sở dữ liệu cũng sẽ góp phần giúp chọn được nhân tố, cá nhân phù hợp làm lãnh đạo, đứng đầu dự án lớn, tổng công trình sư, đó có thể không phải là người giỏi nhất về chuyên môn (vì một dự án lớn cần cùng lúc tham gia của nhiều lĩnh vực) mà là người am hiểu dự án, có khả năng bao quát, nắm rõ các nguồn lực và có khả năng huy động để thực hiện được mục tiêu dự án. Có thể coi Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người “tổng công trình sư” của dự án đường dây 500 kW Bắc Nam khi có thể huy động kết nối tất cả nguồn lực để cuối cùng hoàn thành đường dây tải điện, thời kỳ đầu là từ Bắc vô Nam và sau là cả từ Nam ra Bắc, góp phần to lớn đưa điện phục vụ phát triển kinh tế nhiều vùng miền, địa phương.

Nguồn thiết bị, phòng thí nghiệm

Trước năm 2000, trang thiết bị nghiên cứu của Việt Nam khá nghèo nàn. Tôi nhớ lần sang thực tập về quan trắc, phân tích các yếu tố chất lượng không khí ở Học viện Công nghệ châu Á (AIT), Thái Lan, tôi choáng ngộp với những thiết bị quan trắc phân tích khá hiện đại, chẳng hạn mô hình và thiết bị lấy mẫu ống khói, các máy sắc khí ký, máy lấy mẫu bụi PM10,… Vì thời gian ngắn nên tôi chỉ chú trọng tìm hiểu công dụng của chúng, cho đến khi có đề tài phải lấy mẫu bụi PM10, PM2,5 liên tục 24 giờ, phải phân tích định lượng thành phần các chất, hợp chất, các ion,… thì tôi thật sự hoảng vì không biết phân tích tại đâu. May mà cơ quan tài trợ dự án, SIDA Thụy Điển cử hẳn một cán bộ sang Hà Nội giúp tìm được các cơ sở có các thiết bị hiện đại (do tài trợ của một số quốc gia và tổ chức quốc tế) nên chúng tôi mới hoàn thành được dự án với kết quả tốt.

Theo tôi biết, khoảng thời gian từ 2000-2015 Việt Nam tích cực mua, trang bị nhiều loại thiết bị tối tân, hiện đai, đắt tiền và nâng cấp thiết lập mới nhiều phòng thí nghiệm (như đã trình bày ở phần trên) nhưng nhìn nhận kỹ thì việc kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của sử dụng thiết bị chưa được quan tâm, nhiều loại mua rồi nhưng ít sử dụng hoặc không có đề tài đi kèm để có kinh phí vận hành nên nhiều khi “đắp chiếu” trong thời gian dài và đến hạn thì thanh lý.

Như giai đoạn 2025-2030 nên có dự án kiểm đếm số lượng, đánh giá chất lượng tất cả các thiết bị NCKH thuộc loại hiếm, đắt tiền trên phạm vi cả nước và lập thành cơ sở dữ liệu để dễ tìm kiếm sử dụng. Đồng thời xây dựng quy trình sử dụng chung, quy trình tính toán chi phí khi sử dụng đối với từng loại thiết bị loại này để cơ quan này có thể dễ dàng cử người sang sử dụng hoặc đặt hàng cho cơ quan khác đo đạc, lấy mẫu, phân tích trên các thiết bị này. Như vậy, một loại máy đắt tiền chỉ cần trang bị ở vài PTN, không nhất thiết phải trang bị ồ ạt rất lãng phí. Với cơ sở dữ liệu loại này nhà khoa học, nhà quản lý NCKH có thể dễ dàng biết được địa chỉ nơi có thể cung cấp dịch vụ đo đạc, phân tích, cung cấp loại số liệu mình cần. Hiện tại, phần nhiều thiết bị NCKH còn phải nhập ngoại nhưng trong tương lai có thể nghiên cứu sản xuất một số loại trong nước để dễ mua, sử dụng, duy tu, sửa chữa trong thực tế.

Nguồn kinh phí

Nguồn kinh phí cung cấp cho NCKH rất lớn và lâu nay thường lấy từ ngân sách nhà nước mà thực chất là tiền đóng thuế của dân. Tất nhiên, khi nền kinh tế còn ở mức thấp thì tiền chi cho NCKH không nhiều nhưng do đầu tư đúng trọng điểm chúng ta vẫn có dự án mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. Điển hình là một số dự án phân lập, sản xuất được các giống lúa, giống cây trồng có thể kháng rầy, có năng suất cao và chất lượng tốt và chúng ta có thể tự hào khi cố Anh hùng Lao động, Nhà giáo Nhân dân, GS.TS. Võ Tòng Xuân lên nhận đòng giải thưởng Vinfuture (2023) về hoạt động nghiên cứu có kết quả trong lĩnh vực này.

Với sự tăng trưởng ấn tượng, Việt Nam đã có mức GDP khá lớn, năm 2024 đạt 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 thế giới nên nếu dành đủ kinh phí như mức nêu ra ở NQ57 đến năm 2030: “Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo” thì sẽ có lượng kinh phí rất lớn cho nghiên cứu và phát triển. Vấn đề mong đợi là cơ chế chi như thế nào để hiệu quả đầu tư đạt cao nhất vẫn là vấn đề còn nghiên cứu sâu hơn nữa.

Kết luận

Rõ ràng đội ngũ trí thức Việt Nam đã lớn mạnh, hạ tầng NCKH đã được nâng cao với nhiều loại thiết bị hiện đại, nhiều PTN ngang tầm quốc tế, nhiều tổ chức khoa học lớn mạnh thì NQ57 ra đời vào năm 2025 rất đúng thời điểm và là cú hích, đột phá để đưa NCKH lên tầm cao mới, đóng góp nhiều hơn cho sự giàu mạnh của đất nước, cho cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.

Sau khi ra đời NQ57 vẫn còn nhiều vấn đề cần làm rõ hơn để nghị quyết được thực hiện hiệu quả. Vấn đề tạo lập cơ sở dữ liệu về đội ngũ trí thức, cán bộ, công nhân phục vụ NCKH; cơ sở dữ liệu các loại thiết bị, các PTN hiện có rất cần được lập ngay. Chúng tôi mong rằng Nhà nước sẽ là “Ông chủ” lớn, đặt ra được những dự án/đề tài/hoạt động khoa học lớn tầm cỡ quốc gia, quốc tế và huy động được nguồn lực để thực hiện, tạo ra sản phẩm khoa học sản phẩm kinh tế có chất lượng cao, sánh được sản phẩm cùng loại trên Thế giới.

Đã đến lúc hình thành những tập thể quản lý NCKH mạnh, những “tổng công trình sư” tầm cỡ để lãnh đạo thực hiện những chương trình NCKH đa lĩnh vực nhưng có sản phẩm mang tính học thuật cao và cả sản phẩm hữu hình mà đất nước đang mong đợi.



Tài liệu tham khảo

[1]. PGS.TS. Vũ trọng Lâm, Quan niệm về trí thức

https://special.nhandan.vn/quan-niem-ve-tri-thuc/index.html

[2]. Các phòng thí nghiệm trọng điểm, Tạp chí Chinhphu.vn  ngày 25/08/2010

https://chinhphu.vn/cac-nhiem-vu-khoa-hoc-cong-nghe/cac-phong-thi-nghiem-trong-diem-10001117



GS.TS Hoàng Xuân Cơ Ủy viên chuyên trách Hội đồng biên tập Tạp chí Kinh tế Môi trường

Tag: